tác giả vũ đình liên và bài thơ ông đồ
Điều lạ lùng là chính nhạc sĩ cũng không biết bài thơ đó của ai. Sách Tình khúc Vũ Thành An (NXB Văn Hóa - Văn Nghệ TP.HCM, in năm 2015) có lời nói đầu của ban biên soạn: "Tuyển tập được xuất bản tuyệt đối trung thành với ấn bản do chính tác giả ký âm và ghi lời hát".
Vũ Đình Liên ( 12 tháng 11 năm 1913 - 18 tháng 1 năm 1996 ), là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Bài thơ Ông Đồ của ông được một nhà phê bình văn học xem là một trong mười bài thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới .
HLV Park Hang Seo thu hoạch gì sau hai trận thắng Singapore và Ấn Độ? Cô gái Việt Nam vô địch thế giới cuộc thi bơi 38km, đạp xe 1800km, chạy 422km liên tục 14 ngày. Thanh Vũ trở thành người Việt Nam đầu tiên trong lịch sử hoàn thành và vô địch Deca-Triathlon World Championship, một cuộc thi không tưởng khi cácNhững đồ dùng bắt buộc khi tham gia giải chạy siêu đường mòn ở Sa Pa.
Nhạc sĩ Cung Tiến qua đời ở tuổi 83. Biểu diễn gần một giờ, ca sĩ qua đời sau cơn đau tim. Rapper nổi tiếng tại Mỹ vừa qua đời vì tai nạn giao thông. Lê Đình Lực sinh năm 1933, quê ở Điện Bàn, Quảng Nam. Ông xuất thân là giáo viên tiểu học. Năm 1955, ông về Đoàn Ca
đắn, qua đó hành giả có thể tùy duyên ứng dụng hoặc thực hành, mang lại lợi ích cho người mất, ông bà tổ tiên vv, cho cả chính người thực hiện, và hơn thế nữa. 1.1.2 Bà con quyến thuộc (ông bà tổ tiên) Có khi thọ thân ngả quỷ trong một thời gian dài. 2. Những cách mang lại lợi ích cho ngạ quỷ quyến thuộc và không quyến thuộc và cho cả người Cấm Sát Sinh Và Việc Ăn Chay Phạm Đình Mai.
Site De Rencontre Etudiant Du Monde. A. MỞ ĐẦU LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong chương trình ngữ văn ở bậc THCS, học sinh được tiếp cận nhiều tác phẩm thơ Dân gian, Trung đại, Hiện đại. Chúng ta biết rằng phương thức chủ yếu của thơ là phương trữ tình, nếu văn xuôi phản ánh cuộc sống qua cốt truyện và nhân vật, thì thơ phản ánh những vấn đề xã hội thông qua đời sống tâm thế của người nghệ sỹ qua cảm xúc của nhà thơ. Vậy, giảng dạy một tác phẩm thơ, giáo viên không có con đường nào khác là phải tiếp cận với cách cảm, cách nghĩ, cách giải quyết cuộc sống thông qua cảm hứng chủ đạo của nhà thơ thể hiện một cách sáng tạo trong từng tác phẩm. Rõ ràng, trách nhiệm của giáo viên Ngữ văn từ cách cảm, cách nghĩ của mình mà định hướng giúp học sinh vừa thẩm nhận giá trị thẩm mỹ vừa thu hoạch lí tưởng nhân văn của tác giả. Qua đó giúp các em đồng sáng tạo với người nghệ sỹ để các em trải qua một qui trình tự nhận thức để hướng thiện, hướng mỹ trong quá trình thu gom hành trang cuộc sống. Nhà thơ Vũ Đình Liên xuất hiện trong thời kì đầu của phong trào Thơ mới bên cạnh những tác giả có tên tuổi khai sáng như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp…. Bài thơ “Ông đồ” là tác phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tạo thi ca của Vũ Đình Liên. Ngay từ khi ra đời tác phẩm được hai nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân đánh giá là “bài thơ kiệt tác”. Trong chương trình Ngữ văn 8 cả cũ và mới đều đưa bài thơ “Ông đồ” vào chương trình chính khóa vừa thấy được vai trò cũng như giá trị giáo dục, giáo dưỡng của bài thơ trong chương trình cấp học. Trong bài thơ với một tấm lòng giàu trắc ẩn, nhà thơ đã nhận ra một sự thật là phần đông các nhà nho còn sót lại chỉ đáng thương Nhà thơ từng tâm sự khi viết về bài thơ này hình tượng ông đồ “chính là cái di tích tiều tụy của một thời tàn” và gián tiếp Vũ Đình Liên chỉ cho ta thái độ hợp lí hơn đối với một lớp người trí thức đi trước. Bài thơ được xem là một nghĩa cử. Đưa bài thơ vào chương trình cấp học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc thông qua hình tượng ông đồ nhắc nhủ học sinh có thái độ ứng xử đúng đắn với nhà nho, đạo Nho và rộng hơn là với nền văn hóa của dân tộc đồng thời bồi dưỡng tâm hồn các em về tình nhân ái cao đẹp. 1 Điều đáng quan tâm bài thơ “Ông đồ” là một bài thơ trữ tình sâu sắc, giàu sức ám ảnh nhưng lại là một bài dạy khó. Bởi, những vấn đề trong bài thơ không gần gũi, thậm chí xa lạ với học sinh thời nay. Hơn thế, bài thơ có sự dồn nén về ngôn từ, lẫn tứ thơ, có rất nhiều khoảng lặng, gợi ra nhiều cách hiểu. Nên khi giáo viên tiếp cận với bài thơ để tìm một mạch đi đúng quả là một thách thức. Từ cơ sở lí luận và thực tiễn đó, tôi nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, đặt tác phẩm trong quá trình sáng tác của tác giả, đặt tác giả trong thi pháp chung của trào lưu lãng mạn mà cụ thể là của phong trào Thơ mới để thể nghiệm trong quá trình định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. DUNG I. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY 1. Khảo sát yêu cầu và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên của lớp 8 cũ và mới Sự gợi ý và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên cũ và mới đều có chung một quan điểm + 4 khổ thơ đầu của bài thơ đều miêu tả hình ảnh ông đồ ngồi viết câu đối bán trên hè phố ngày Tết qua cảm nhận của nhà thơ, nhưng ông đồ ở 2 khổ đầu và hình ảnh ông đồ ở 2 khổ sau là hai số phận, hai tâm trạng hoàn toàn khác nhau - Hai khổ thơ đầu là hình ảnh ông đồ trong thời đắc ý của mình. Tết đến hoa đào nở lại thấy ông đồ cùng mực tàu, giấy đỏ bên hè phố, góp mặt vào sự đông vui, náo nhiệt của phố phường. Ông trở thành trung tâm của mọi sự chú ý, là đối tượng của sự ngưỡng mộ của mọi người. - Hai khổ thơ tiếp theo hình ảnh ông đồ thời tàn. Vẫn là hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ bên hè phố ngày Tết, nhưng tất cả đã khác xưa. Đường phố vẫn đông người qua nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông. Ông vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt với cuộc đời nhưng cuộc đời thì đã quên hẳn ông. 2 + Qua sự tương phản giữa hai cảnh tượng cùng miêu tả ông đồ ngồi viết câu đối ngày Tết và khổ cuối để thấy rõ tâm tư của nhà thơ Tâm tư ấy được bộc lộ kín đáo qua những chi tiết miêu tả, nhưng có khi được nhà thơ trực tiếp phát biểu 2 câu thơ kết. Đó là niềm thương cảm chân thành đối với hoàn cảnh ông đồ đang tàn tạ trước sự thay đổi của thời cuộc, đồng thời đó còn là niềm nhớ nhung luyến tiếc trước những cảnh cũ người nay đã vắng bóng của nhà thơ. Như vậy, theo định hướng của sách giáo viên văn 8 cũ và mới đều tập trung phân tích hình tượng ông đồ qua cảm nhận của nhà thơ để từ đó thấy rõ tâm tư, tình cảm của Vũ Đình Liên trước thân phận con người và sự đổi thay của thời cuộc. Đó là một định hướng đúng. Song, cách hiểu hình ảnh ông đồ trong hai khổ đầu là thời kì đắc ý của ông đồ e là chưa thỏa đáng. Bởi, hình tượng ông đồ trong bài thơ ngay từ đầu đã là “di tích của một thời tàn”. Sự xuất hiện của ông đồ đã gắn với một thời điểm thời điểm ông đi viết thuê, những nét chữ “phượng múa rồng bay” kia là để bày bán trên hè phố. Và qua hình tượng ông đồ trong bài thơ, nhà thơ không chỉ thể hiện niềm thương cảm cho số phận bất hạnh của một kiếp người mà còn là nỗi niềm hoài cổ lắng sâu. Trong những vui buồn, được mất của đời sống dân tộc, niềm tiếc thương cho những giá trị tinh thần của một thời vẫn là những ám ảnh day dứt với tất cả những tấm lòng biết trân trọng nhữnh giá trị tinh hoa của dân tộc. Do vậy, bài thơ “ Ông đồ” rung cảm sâu xa tâm hồn bao bạn đọc bởi nó gắn liền với một lớp người đáng kính, với một nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều thế hệ người Việt. Như vậy, khi nhắc đến hình ảnh ông đồ là “đánh động trong chúng ta nỗi buồn hoài cổ, sự tiếc nuối quá khứ vàng son, lòng thương xót số phận hẩm hiu của những nhà nho…Nó chứa đựng cả một hệ vấn đề bi kịch của sự gặp gỡ Đông-Tây, sự suy vong và cáo chung của một thời đại, sự biến mất vĩnh viễn của một lớp người”. Như vậy, định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của sách giáo viên chưa thể hiện rõ mạch cảm xúc của chủ thể trữ tình và dường như là giảm đi sức ngân vang của thi phẩm trong lòng người đọc. 2. Thực tiễn dạy học của giáo viên Tuy định hướng chưa thật thỏa đáng như đã nói ở trên, nhưng trong cách trình bày của sách giáo viên đã có sự gợi ý khá chi tiết, đầy đủ, tạo hệ thống mạch đi rõ, cộng 3 với quan niệm của đa số giáo viên sách giáo viên bao giờ cũng đúng và chuẩn do vậy giáo viên chủ yếu dựa vào định hướng khai thác và sự gợi ý ấy để tìm hiểu tác phẩm mà chưa có sự trăn trở nhiều để tìm ra một hướng đi thích hợp cho bài dạy của mình. Chính vì lệ thuộc vào những gợi ý và định hướng khai thác của sách giáo viên nên giáo viên trực tiếp giảng dạy chưa chủ động đặt ra nhiều suy nghĩ ông đồ trong bài thơ biểu tượng cho điều gì? Sự thất thế tàn lụi của ông đồ nêu vấn đề gì? Để từ đó thẩm thấu sâu sắc tình cảm và nỗi lòng của Vũ Đình Liên kí thác trong bài thơ. Hơn nữa, điều đáng chú ý là bài thơ là tiếng lòng của một người thuộc thế hệ trí thức Tây học trẻ tuổi Vũ Đình Liên sinh năm 1913, làm bài thơ này khi mới 23 tuổi – khi đang còn rất trẻ, chưa có nhiều trải nghiệm đang lặng lẽ xót xa để viết, để ngậm ngùi, thương cảm trước “cái cảnh thương tâm của một nền nho học lúc mạt vận”. ĐỔI KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY BÀI THƠ “ÔNG ĐỒ” 1. Phần chuẩn bị a. Một số yếu tố ngoài văn bản giáo viên cần nghiên cứu để hỗ trợ cho bài giảng * Vài nét về phong trào thơ mới 1 Thơ mới thuộc trào lưu văn học lãng mạn 30 -45 Ở giao đoạn này có sự phát triển của nhóm Tự lực văn đoàn chuyên viết văn xuôi và phong trào thơ mới 2 Về khái niệm thơ mới + Đây là khái niệm có tính chất qui ước do Phan Khôi dùng đầu tiên trong bài viết “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” năm 1932. Trong bài viết này Phan Khôi dùng khái niệm thơ mới để đối lập với thơ cũ. + Khái niệm thơ mới gắn với phong trào thơ mới – buổi bình minh của thơ ca Việt Nam hiện đại. + Thơ mới là cuộc cách mạng về thơ ca. Cuộc cách mạng này không chỉ là nội dung hay hình thức mà gồm cả hai gắn bó mật thiết với nhau “Thơ ta phải mới, mới về văn thể, về ý tưởng”. + Thơ mới là một bước phát triển quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. 3 Đặc điểm của thơ mới a Về nội dung cảm hứng 4 + Thơ mới là tiếng nói khẳng định của cái tôi cá nhân, cá thể. Cái tôi được đưa lên bình diện đầu tiên – Cái tôi giàu khát vọng khát vọng khẳng định bản thân trong đời sống, khát vọng về một thế giới ước mơ lí tưởng. Trước hết trong những bài thơ của thơ mới đã bộc lộ khát vọng được sống là mình – một khát vọng rất nhân bản. Thơ mới là một cuộc đi tìm mình do vậy trong những bài thơ mới xuất hiện nhiều định nghĩa về cái tôi “Tôi là người bộ hành phiêu lãng/ đường trần gian xuôi ngược để vui chơi”, “Ta là một là riêng là thứ nhất/Chẳng có ai bè bạn nổi cùng ta”…Chính lúc cái tôi được giải phóng, nó có quyền lựa chọn và tự lựa chọn. Lúc ấy con người được tự do phơi trải lòng mình, nói cho hết nói cho nhiều mong một sự cảm thông bù đắp.. Do vậy âm điệu buồn tràn ngập các bài thơ. Đó là cái buồn của thế hệ trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ đang loay hoay với cái tôi bản ngã, thấy mình cô đơn, buồn đau, bất lực. Với những thất vọng cô đơn buồn đau ấy, cái tôi thoát li thực tại tìm đến thế giới ước mơ của cái đẹp. Những tâm hồn lãng mạn chạy trốn cuộc đời đã tìm vào cõi tiên , thoát li vào tình yêu, thiên nhiên hay vào tôn giáo. Giấc mộng thoát li ấy vừa cho ta thấy được vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn vừa hiểu hơn về tâm sự nỗi lòng của những trí thức tiểu tư sản trong cảnh nước mất nhà tan. Chính sự xuất hiện của cái tôi cá nhân đã làm nên cái mới của thơ ca lãng mạn“với dáng dấp mới, nhịp đập mới, sinh khí mới, thơ mới đã trả lại linh hồn và sức sống cho thơ ca”. + Như vậy, với sự khẳng định của cái tôi cá nhân thơ mới đã thể hiện được khát khao dân chủ của thời đại Bên cạnh đó Thơ mới còn thể hiện tinh thần dân tộc kín đáo nhưng sâu sắc Yêu Tiếng Việt, yêu quê hương đất nước, yêu những phong tục tập quán, nhớ tiếc thời vàng son của dân tộc… Thơ mới còn bày tỏ lòng yêu thương những số phận vất vả, tình cảm xót xa trước những biến đổi của cuộc đời… để rồi tự cảm thương mình. Và thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với cuộc đời. b Về hình thức nghệ thuật + Phương thức trữ tình trong thơ mới là cái tôi trực tiếp xưng danh. Cái tôi nhà thơ là chủ thể do vậy cái nhìn nghệ thuật có dấu ấn cá thể hóa rất cao. Nó chi phối toàn 5 bộ cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu trong việc xây dựng hình tượng thơ. + Cũng chính vì vậy, thơ mới đã cởi bỏ những ràng buộc có tính qui phạm của thơ cũ vần, luật, số câu, số chữ, nhịp, giọng điệu… Thơ mới đã căn bản cải tạo thơ trữ tình Tiếng Việt từ điệu ngâm sang điệu nói. + Thơ mới là một cuộc cách tân về thể loại. Thơ mới sử dụng thể thơ truyền thống với những đổi mới về vần, nhịp và sáng tạo thể thơ mới Thể thơ 8 chữ Thơ mới vừa biết cách tân, đổi mới vừa biết giữ gìn, khai thác những tinh hoa của thơ truyền thống. “Thơ mới thực sự đã trả lại linh hồn và sức sống cho thơ ca”. * Tác giả Vũ Đình Liên sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913- mất ngày 18 tháng 1 năm 1996 Ông sinh tại Hà Nội, quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đỗ tú tài trường Bưởi năm 1932. Ông là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt nam Ông từng dạy học ở các trường tư thục Thăng Long, Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống, ông học thêm trường Luật. Ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông được nhân danh hiệu nhà giáo nhân dân năm 1990. Như đã nói ở phần mở đầu,Vũ Đình Liên tham gia phong trào thơ mới ngay từ ngày đầu. Năm 1936 ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" đăng trên báo Tinh Hoa Ông rất say mê thơ Bôđơle, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Bôđơle. Mọi người gọi ông thân mến là “Bô đơ Liên”, “Bô đơ le Việt Nam”. Hai nguồn thi cảm chính là của ông là lòng thương người và tình hoài cổ. Mặc dù được biết đến trong phong trào Thơ mới nhưng Vũ Đình Liên chưa xuất bản một tập thơ nào. Những bài thơ hiếm hoi được biết đến của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về luỹ tre xưa, về thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Hoài niệm của ông cũng là nỗi niềm của nhiều người và bức tranh bằng thơ về Ông Đồ vẫn sẽ còn tồn tại với thời gian. Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt nam. * Những tác phẩm chính Một số bài thơ Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Luỹ tre xanh, Người đàn bà điên ga Lưu xá... 6 - Đôi mắt 1957 - Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam cùng Nhóm Lê Quý Đôn-1957 - Nguyễn Đình Chiểu 1957 - Thơ Baudelaire dịch-1995 b. Phần nghiên cứu văn bản * “Ông đồ” là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Hội tụ hai nguồn thi cảm chính trong thơ Vũ Đình Liên “lòng thương người và tình hoài cổ”. Và bài thơ “Ông đồ” đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới. Được đánh giá là một kiệt tác. * Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ ra đời vào năm 1936 – được đăng trên báo Tinh hoa + Hoàn cảnh xã hội Những năm đầu của thế kỉ XX, với luồng gió mới ào ạt của văn hóa phương Tây, với sự thay đổi của rường cột xã hội, nền Hán học và chữ Nho ngày càng mất vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam. Chế độ khoa cử phong kiến bị bãi bỏ khoa thi hưong cuối cùng ở Bắc kì là vào năm 1915, cả thành trì văn hóa cũ hầu như sụp đổ. Và các nhà nho từ chỗ là nhân vật trung tâm của đời sống văn hóa dân tộc, được xã hội tôn vinh, bỗng trở nên lạc bước trong thời đại mới, bị cuộc đời bỏ quên và cuối cùng là vắng bóng. + Hoàn cảnh tâm thế của nhà thơ Nhà thơ là một trí thức Tây học trẻ tuổi, có mặt ngay từ đầu trong phong trào Thơ mới. Vũ Đình Liên với hồn thơ hồn hậu luôn sẵn có tấm lòng cảm thương, trắc ẩn chân thành với những số phận con người bất hạnh. Ông tự nhận mình là “thi sỹ của những thân tàn ma dại”. * Thể thơ năm chữ ngũ ngôn gồm nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu khác với ngũ ngôn tứ tuyệt có khả năng diễn tả phong phú. Nhưng thích hợp nhất với việc diễn tả tâm tình sâu lắng. Trong bài thơ này, thể thơ năm chữ ngũ ngôn rất phù hợp với việc diễn tả cảm xúc, tâm tư của nhà thơ. * Hình tượng nghệ thuật trung tâm của tác phẩm là hình tượng “ông đồ”. Qua hình tượng ông đồ, tác giả kí thác nỗi ngậm ngùi day dứt trước sự tàn tạ vắng bóng của ông đồ - con người của một thời đã qua. “Ông đồ chính là di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn” như tác giả đã nói. Chọn hình tượng ông đồ là đối tượng trữ 7 tình đã chứa đựng cả một vấn đề lớn số phận của nền văn hóa dân tộc và những bước thăng trầm của lịch sử. Tự thân hình tượng ông đồ trong bài thơ cũng đã chở tải nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ Vũ Đình Liên. Trước khi phân tích bài thơ, giáo viên cần dành thời gian để giới thiệu về nhân vật ông đồ trong đời sống văn hóa xã hội của người Việt Nam xưa Ông đồ là người Nho học nhưng không đỗ đạt, sống thanh bần bằng nghề dạy học. Những năm 30 của thế kỉ XX thì vị trí của các thầy đồ dạy chữ nho hầu như không còn nữa. Và người ta chỉ thấy ông khi tết đến với cái câu đối phong tục treo câu đối đỏ một năm một lần. 2. Định hướng khai thác Trong bài thơ, ông đồ là hình tượng nghệ thuật đặc sắc diễn tả thân phận bị chối từ của một lớp người nho học trong những năm biến động văn hóa lớn lao đầu thế kỉ XX. “Ông đồ là di tích tiều tụy của một thời tàn”, là một tứ thơ chở tải niềm thương cảm chân thành trước số phận bi kịch của một lớp người trong cảm hứng hoài cổ tiếc nuối cảnh cũ người xưa, ngậm ngùi sám hối trước cái cảnh thương tâm của một nền nho học lúc mạt vận. Như vậy, ông đồ là đối tượng trữ tình để nhà thơ kí thác nỗi niềm, tâm trạng. Để thẩm nhận được sâu sắc, trọn vẹn tư tưởng tình cảm của nhà thơ ở trong bài thơ không thể tách rời cách hiểu về vai trò của ông đồ trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc gắn với nền nho học. A. Mạch cảm xúc Cảm nhận của tác giả về hình ảnh ông đồ qua thời gian B. Mạch cảm xúc đó được thể hiện qua 3 tiết đoạn - Hai khổ thơ đầu Khổ 1,2 - Hai khổ thơ tiếp Khổ 3,4 - Khổ thơ cuối 1. Khổ 1,2 Ở khổ thơ 1,2 cần thấy rõ hình ảnh ông đồ được gắn với một thời điểm ông đi viết thuê, những nét chữ phượng múa rồng bay kia chỉ để bày bán trên hè phố. Trong khung cảnh của dịp tết đến xuân về, hoa đào khoe sắc thắm, phố phường đông vui, tấp nập, hình ảnh ông đồ xuất hiện bên hè phố bán chữ trên giấy điều cho những ai còn yêu lối chữ tượng hình và âm hưởng của một thời xa đã cho ta thấy một bước suy tàn của nền Nho học. Bởi, ông đồ từ thư phòng trang nghiêm đã phải lận đận ra tận hè phố để kiếm sống bằng việc bán chữ. Bán chữ là cái cực của kẻ sỹ ở mọi thời. 8 Nhưng dẫu sao mọi người còn chuộng phong tục tết đến xuân về treo câu đối đỏ trên vách để trang hoàng nhà cửa và ông đồ vẫn được mọi người tìm đến “Bao nhiêu người thuê viết / Tấm tắc ngợi khen tài”. Với mực tàu giấy đỏ, với những câu đối đỏ, hình ảnh ông đồ gợi lại một phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền. Người thuê viết lúc ấy cũng còn đông đảo lắm, họ hào phóng khen ngợi tài của ông mà cụ thể là tài viết chữ như “phượng múa rồng bay”. Những nét chữ thật sống động, dường như cái hồn của người viết đang truyền lên từng con chữ. Lúc này người thuê viết lẫn người viết thuê đều biết trọng cõi tinh thần, hướng đời sống vào những vẻ đẹp thanh cao. Có lẽ ông đồ cũng tìm được cho mình một niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê được công chúng mến mộ. Nền nho học tuy đã suy tàn nhưng vẫn còn hiện diện trong một phong tục đẹp, chữ nho vẫn còn tồn tại trong một góc của đời sống tinh thần của con người. Như vậy, hình ảnh ông đồ gắn với phong tục đẹp chỉ là một sự an ủi cuối cùng cho sự tàn tạ của một nền nho học. Nói một cách khác, ngay ở hai khổ thơ đầu ông đồ cũng đã là “di tích của một thời tàn” tuy chưa lộ hết vẻ tiều tụy đáng thương. Hiểu như vậy về hình ảnh ông đồ trong khổ thơ 1,2 để cảm nhận được trong cái đông vui tấp nập của phố phường, trong cái niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê cứ có điều gì đó phảng phất nỗi buồn, ngậm ngùi của nhà thơ. Điều đó nó nén chặt trong tứ thơ “ông đồ”, nó lắng trong âm điệu trầm buồn có ngay từ những câu thơ ngũ ngôn đầu tiên của bài thơ, lắng trong từng câu chữ Mỗi năm hoa đào nở / Lại thấy ông đồ già, trong hình ảnh dường như đối lập hoa đào nở, phố phường tấp nập, cuộc sống sinh sôi với hình ảnh ông đồ già nua, đơn lẻ… Hiểu như vậy để thấy được những đoạn sau chỉ là sự phát triển, lộ rõ tứ thơ đã phảng phất ở đoạn trên mà thôi. Toàn bộ bài thơ kết cấu trên một âm hưởng ngày một mở rộng, lan xa… 2 Khổ 3,4 Vẫn không gian của phố phường tấp nập, vẫn vào dịp tết đến xuân về, nhân vật, cảnh vật vẫn chừng ấy ông đồ, giấy, mực, phố phường. Nhưng phong tục treo câu đối đỏ ngày tết đã không còn được người ta chuộng nữa. Từ “nhưng” với điệp từ “mỗi” đánh dấu sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của thời gian. Người tri âm hôm qua nay đã là khách qua đường. Niềm vui nho nhỏ của ông là được thảo những nét “phượng múa rồng bay” đem lại chút vui cho mọi người khi tết đến xuân về nay 9 cũng không còn. Nỗi buồn của lòng người như lan tỏa đến những vật vô tri “Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu”. Giấy cũng thấm buồn mực cũng nhuộm sầu. Biện pháp nhân hóa sử dụng thật đắc địa, nỗi đau của con người làm tái tê cả cảnh vật. “Ông đồ vẫn ngồi đấy / Qua đường không ai hay”. Ông cô đơn, trơ trọi, lạc lõng và hoàn toàn bị quên lãng giữa phố phường tấp nập. Xót xa thay, ông đồ bị người đời lãng quên trong lúc còn hiện hữu. Phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền còn đâu nữa. Chút an ủi,vớt vát cuối cùng của nho học lúc mạt vận cũng tiêu tan. Nho học đã hoàn toàn mất chỗ đứng trong đời sống tinh thần của con người. Cần phân tích kĩ hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút để thấy rõ nỗi niềm thương cảm sâu sắc của nhà thơ đối với ông đồ “Lá vàng rơi trên giấy / Ngoài trời mưa bụi bay”. Lá vàng đã trút hết trên trang giấy nhạt phai như chấm hết sự sinh sôi. Mưa bụi bay trong không gian tê tái nhạt hòa như khóc thương, tiễn biệt một số phận con người, một thời đại đã dần khép vào dĩ vãng. Hiện thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng. Chỉ là mưa bụi bay rất nhẹ vậy sao mà ảm đạm, lạnh lẽo tới buốt giá. Nó diễn tả lòng người trĩu nặng sầu đau, dường như nỗi đau của người trong cuộc lẫn người chứng kiến hòa chung trong một điệu, tràn ngập cả không gian. Chính nỗi lòng thương cảm sâu sắc của nhà thơ về số phận của ông đồ đã cất lên những tiếng thơ nức nở nghẹn ngào. Ông đồ quả thực là “di tích của một thời tàn”. Như vậy, ở khổ 1,2 trong tương quan với khổ 3,4 không thể là thời đắc ý, huy hoàng của ông đồ. Có chăng hình ảnh ông đồ gắn với phong tục đẹp của văn hóa truyền thống là một sự níu kéo cuối cùng của nho học đã bước vào thời tàn. Có chăng chỉ là cái tình của người đời đối với ông đồ vào thời mạt vận mà thôi. Định hướng như vậy để thấy được lòng thương cảm của Vũ Đình Liên đối với thân phận ông đồ thấm đẫm từ đầu đến cuối bài thơ, nó càng thấm sâu với bao xót xa, day dứt ám ảnh. Khổ 3,4 chỉ để làm rõ hơn những điều đã hé lộ ở 2 khổ thơ đầu. Và cũng để thấy rõ hơn cho tứ thơ “ông đồ” thương cảm cho một kiếp người cũng là bộc lộ nỗi niềm hoài cổ, nhớ tiếc cho một thời đã qua, gắn với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp. 3 Khổ thơ cuối 10 Với kết cấu đầu cuối tương ứng mở đầu “Mỗi năm hoa đào nở / Lại thấy ông đồ già” và kết thúc “Năm nay đào lại nở / Không thấy ông đồ xưa” đã làm rõ cái mâu thuẫn giữa cái vô hạn của thời gian, cứ luân chuyển theo chu kì bất biến và cái hữu hạn của đời người, một đi không trở lại để bật ra cái bi kịch của một kiếp người trong nỗi thương cảm da diết của nhà thơ. Đồng thời đó cũng là cái tứ cảnh cũ người đâu thuờng gặp trong thơ xưa đầy gợi cảm năm nay đào lại nở, tết đến, mùa xuân lại về, nhưng ông đồ già đã thành “ông đồ xưa”, thành “người muôn năm cũ”. Cách dùng từ đầy dụng ý và giàu sức gợi đã xoáy vào lòng người bao nỗi xót thương trắc ẩn về hình bóng ông đồ già đã khuất nẻo dương gian, xót thương cho bao danh nho vang bóng một thời nay đã hoàn toàn vắng bóng. Hai câu thơ cuối là lời tự vấn của nhà thơ “Những người muôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ?”. Nhà thơ tự hỏi mình, hỏi mọi người, hỏi vọng về quá khứ với bao nỗi xót xa, thương tiếc ngậm ngùi…Ông đồ vắng bóng không chỉ là khép lại thân phận của một kiếp người mà là sự biến mất vĩnh viễn của của một lớp người, sự suy vong cáo chung của một thời đại, sự mai một, phôi pha của những nét đẹp văn hóa truyền thống. Nỗi buồn về thân thế đã trở thành nỗi buồn cảm hoài về thời thế. “Những người muôn năm cũ” không còn nữa nhưng linh hồn họ, những giá trị mà họ đã đóng góp vào cuộc sống tinh thần của quê hương, đất nước này, giờ ở đâu? “Câu thơ dùng chữ “hồn” – một cách nói rất Việt Nam đã chạm đến những rung cảm sâu xa nhất trong tâm linh giống nòi, nó khắc khoải mãi, da diết mãi”. Hơn nữa, bài thơ là tiếng lòng của một trí thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ, khi Nho học đã đi đến hồi kết. Đó là nỗi cảm thương, ngậm ngùi, tiếc nuối thoáng chút ân hận của lớp người đương đại khi lòng mình không dủ thương đủ quí để níu giữ những nét đẹp của văn hóa truyền thống, dẫu nhà thơ ý thức sâu sắc qui luật vận động của cuộc đời và xã hội. Bởi thế, trong nỗi niềm hoài cổ của Vũ Đình Liên còn là cái nhìn nhân hậu với quá khứ và với những gì đang trở thành quá khứ. Tiếng lòng ấy dễ dàng tìm được tiếng nói tri âm. 11 hành soạn giáo án Từ định hướng và lưu ý trên, kết hợp với thực tiễn giảng dạy, tôi xin đề xuất giáo án bài dạy như sau Tiết 65,66 ÔNG ĐỒ Vũ Đình Liên A. Mục tiêu cần đạt Giúp học sinh 1. -Cảm nhận được hình ảnh tàn tạ của ông đồ - một con người đã và đang trở nên lạc lõng và bị gạt ra ngoài lề cuộc sống lúc ấy – được thể hiện đầy ám ảnh trong toàn bộ bài thơ - Qua đó thấy được niềm cảm thương chân thành và nỗi nhớ tiếc ngậm ngùi của tác giả đối với cảnh cũ người xưa gắn liền với một nét đẹp văn hóa cổ truyền. - Hiểu và đánh giá được giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài thơ 2. Giáo dục sự trân trọng đối với những nét đẹp văn hóa truyền thống 3. Rèn luyện kĩ măng phân tích, cảm thụ thơ ngũ ngôn. B. Tiến trình thực hiện các bước lên lớp 1. Bài cũ Cảm nhận về tâm sự của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” 2. Bài mới Theo dõi chú thích * và cho biết I. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm những nét chính về tác giả? 1. Tác giả - Vũ Đình Liên 1913 - 1996 - Tham gia phong trào thơ mới ngay từ những ngày đầu - Cảm hứng thơ Vũ Đình Liên tập trung vào hai nội dung chính Lòng thương người và tình hoài cổ - Ngoài sáng tác thơ ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học. Năm 1990 ông được 12 phong là nhà giáo nhân dân. 2. Tác phẩm Những hiểu biết của em về bài - Bài thơ Ông đồ là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ “Ông đồ”? thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. - Bài thơ được đánh giá là một kiệt tác Hoài Thanh-> Vũ Đình Liên có vị trí xứng đáng trong phong trào thơ mới. II. Baì thơ này nên đọc như thế nào? Đọc và tìm hiểu chung 1. Đọc Bài thơ nên đọc với giọng chậm rãi, trầm lắng để diễn tả nỗi lòng của nhà thơ. 2. Tìm hiểu chung Bài thơ viết theo thể thơ gì?Nêu thơ Ngũ ngôn phương thức biểu đạt của bài thơ? -> Rất quen thuộc rất phù hợp với việc diễn tả cảm xúc, tâm tư của nhà thơ. Ngôn ngữ cô đọng, nhiều ý nghĩa dư vang b. Phương thức biểu đạt Biểu cảm là chính xen tự sự, miêu tả Nhân vật trữ tình trong bài thơ? c. Nhân vật trữ tình - Chủ thể trữ tình tác giả - Đối tượng trữ tình Ông đồ Dựa vào sự giải thích của SGK - Ông đồ là người Nho học nhưng không đỗ đạt, em hiểu như thế nào về hình ảnh sống thanh bần bằng nghề dạy học. Những năm 30 ông đồ trong đời sống văn hóa xã thì vị trí của các thầy đồ dạy chữ nho hầu như không hội của người Việt nam xưa? còn nữa. Và người ta chỉ thấy khi ông khi tết đến với cái câu đối phong tục treo câu đối đỏ một năm một lần. -> ông đồ trở thành một tứ thơ giàu sức nén của bài thơ. Qua hình tượng ông đồ tác giả khái quát được những bước thăng trầm của thời đại và số phận của nền Nho học. 13 Tìm hiểu mạch cảm xúc? Mạch d. Mạch cảm xúc Cảm nhận của tác giả về hình ảnh cảm ấy được thể hiện như thế nào ông đồ qua thời gian trong bài thơ? - Triển khai qua 3 tiết đoạn - Khổ thơ 1,2 - Khổ thơ 3,4 - Khổ thơ cuối III. Tìm hiểu chi tiết + Khổ 1,2 Hình ảnh ông đồ được tác giả - Khung cảnh - Hoa đào nở cảm nhận trong khung cảnh như - Phố đông người qua thế nào? Thể hiện qua hình ảnh từ -> Gợi khung cảnh tết đến xuân về. hoa đào khoe ngữ nào? Nhận xét về khung cảnh sắc thắm, phố phường tấp nập đông vui… đó? -> Cảnh đẹp tràn đầy sức sống, mọi vật dường như tươi trẻ lại. Trong khung cảnh đó ông đồ hiện - Ông đồ - Lại thấy lên qua những từ ngữ nào? - mực tàu, giấy đỏ Nhận xét cách dùng từ? Qua đó Lại phó từ chỉ sự tiếp diễn, lặp đi lặp lại. gợi lên điều gì? - Tác dụng - hình ảnh ông đồ xuất hiện nơi nơi phố phường vào ngày tết đã trở nên quen thuộc - Gợi một phong tục đẹp, một thú vui tao nhã vào ngày tết cổ truyền với bánh chưng xanh câu đối đỏ. Hãy nhớ lại phần tìm hiểu chung -Vị thế ông đồ không còn như xưa Ông đồ đã phải đã cho ta biết ông đồ là ai. Vậy rời bỏ thư phòng trang nghiêm để lận đận ra hè phố hình ảnh ông đồ trong bài thơ bán chữ. xuất hiện trong vị thế nào?Có còn là thầy đồ dạy chữ? Hình ảnh ông đồ viết thuê giúp em nhận ra điều -> Nền nho học đã bước vào thời tàn. gì? Thế nhưng, thái độ của mọi người - Thái độ mọi người - Bao nhiêu người thuê 14 đối với nghề viết chữ của ông lúc - Tấm tắc ngợi khen ấy ra sao? Nhận xét cách dùng từ? - Đại từ phiếm chỉ, chỉ số nhiều Qua đó em hiểu gì về thái độ của ->Khách tìm đến mua chữ nhiều không sao kể xiết mọi người? luôn miệng tấm tắc ngợi ca tài viết chữ của ông đồ Cảm nhận của tác giả về nét chữ - Nét chữ như phượng múa rồng bay -> sử dụng so của ông đồ lúc ấy ra sao? sánh + thành ngữ -> Gợi nên nét chữ đẹp, sống động như có linh hồn. Hồn của người vết chữ như truyền sang từng con chữ. Người viết thuê trong cái thú chơi tao nhã như một nhu cầu giao cảm với con người, đất trời mỗi độ xuân về. Từ đó, hình dung tâm trạng của - Ông đồ vui khi còn được thể hiện vốn chữ tài hoa ông đồ lúc này? của mình. Dường như lúc này ông đã tạm quên đi nỗi buồn thân phận để kiếm tìm một chút tri âm, một niềm an ủi cuối cùng cho nền nho học… Trong cảnh kẻ thuê người viết - Dẫu nền Nho học đã bước vào thời tàn, song mỗi độ xuân về ấy giúp em cảm vẫn còn hiện diện trong một phong tục đẹp. Chữ nho nhận rõ nét điều gì? còn là thú vui tao nhã và vẫn còn tồn tại trong một góc của đời sống tinh thần của con người. Hình dung về tâm trạng nhà thơ + Tâm trạng của nhà thơ lúc ấy? - Yêu mến trân trọng, tự hào đối với ông đồ và Qua cách miêu tả hình ảnh ông đồ phong tục đẹp của dân tộc trong khổ 1 và 2 em còn cảm nhận được gì về nỗi lòng của nhà thơ đối với ông đồ?Gợi hai khổ thơ cất lên với giọng điệu như thế nào? Tâm trạng ấy còn chất chứa ở đâu nữa? - Giọng thơ cất lên trầm buồn ngay từ câu thơ ngũ ngôn đầu tiên của bài thơ. - Từ ngữ Lại thấy Ông đồ già - Hình ảnh thơ Hoa đào nở, phố phường tấp nập > cảm nhận được trong cái đông vui tấp nập của phố phường, trong cái niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê cứ có điều gì đó phảng phất nỗi buồn, ngậm 15 Vậy ở đây t/giả sử dụng cách biểu ngùi của nhà thơ. cảm gì? -> Cách biểu cảm gián tiếp qua miêu tả, tự sự +. Khổ 3,4 Cùng với sự tuần hoàn của thời + Sự đổi thay của số phận ông đồ qua thái độ của gian nhà thơ đã nhận ra sự thay mọi người đổi trong số phận ông đồ như thế nào? Thể hiện qua những từ ngữ, biện pháp nghệ thuật nào? Hãy phân tích? -Từ “nhưng” mở đầu khổ 3 chỉ ý đối lập, bước ngoặt của thời gian, đánh dấu sự đổi thay. - Điệp từ mỗi diễn tả bước đi chầm chậm của của thời gian, nhịp độ khách thưa vắng dần. Người tri âm hôm qua nay đã là khách qua đường. Trước sự đổi thay của số phận + Thái độ của tác giả Thốt lên “Người thuê viết nay ông đồ, tác giả đã bày tỏ thái độ đâu”?-> câu hỏi tu từ qua câu thơ nào? Nhận xét về -> Tâm trạng bàng hoàng thoảng thốt trước cảnh nghệ thuật? Qua đó em hiểu thái vắng người vắng khách độ gì? + Nỗi lòng của ông đồ “ Giấy đỏ buồn / nghiên sầu Nhà thơ đã diễn tả nỗi lòng của -> Hình ảnh nhân hóa ông đồ qua hình ảnh nào? Phân -> Làm cho cảnh vật vô tri trở nên có linh hồn, trĩu tích giá trị biểu đạt? nặng sầu đau. -> Trang giấy có phải thấm nỗi buồn đau khôn tả của lòng người mà không còn thắm đỏ. Mực tàu trong nghiên bao ngày không được dùng đến nên đặc quánh lại trong nỗi sầu đau. -> Nỗi đau của lòng người làm tái tê cả cảnh vật. Trong tình cảnh đó hình ảnh ông + Ông đồ vẫn ngồi đấy/ không ai hay… đồ hiện lên như thế nào? - Phó từ “vẫn” -> ông đồ vẫn ngồi đấy giữa phố phường tấp nập, trong khung cảnh tết đến xuân về kiên nhẫn đợi chờ khách qua đường mà cô đơn,trơ trọi, lạc lõng giữa dòng người xa lạ. Từ hình ảnh đó của ông đồ em -> Ông đồ bị lãng quên ngay khi còn hiện hữu. cảm nhận được điều gì xót xa? Phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền còn đâu nữa. Chút an ủi,vớt vát cuối cùng của nho học lúc mạt 16 vận cũng tiêu tan. Nho học đã hoàn toàn mất chỗ đứng trong đời sống tinh thần của người Việt. + “Lá vàng rơi trên giấy/ ngoài trời mưa bụi bay” Hai câu thơ cuối của khổ 3 đã -> Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc diễn tả sâu sắc tình cảnh của ông => Lá vàng đã trút hết trên trang giấy nhạt phai như đồ cũng như nỗi lòng của nhà thơ. chấm hết sự sinh sôi. Mưa bụi bay trong không gian Em hãy phân tích làm rõ cái hay tê tái nhạt nhòa như khóc thương, tiễn biệt một số của hai câu thơ đó? phận con người, một thời đại đã dần khép vào dĩ vãng. Dường như nỗi đau của người trong cuộc lẫn người chứng kiến hòa chung trong một điệu, tràn ngập cả không gian. =>Chính nỗi lòng thương cảm sâu sắc của nhà thơ về số phận của ông đồ đã cất lên những tiếng thơ trĩu nặng sầu đau. Ông đồ quả thực là “di tích của một thời tàn”. Câu hỏi thảo luận nhóm để củng -> Củng cố qua thảo luận nhóm Toàn bộ bài thơ cố kiến thức vừa học qua 4 khổ kết cấu trên một âm hưởng ngày một mở rộng, lan thơ Theo em từ sự thay đổi của xa… lòng thương cảm của Vũ Đình Liên đối với số phận ông đồ ở khổ 3,4 có thể thân phận ông đồ thấm đẫm từ đầu đến cuối bài thơ, khẳng định có sự thay đổi trong nó càng lúc càng thấm sâu với bao xót xa, day dứt tình cảm của tác giả không? Vì ám ảnh. sao? +. Khổ thơ cuối -Nghệ thuật đối lập -Mở đầu Mỗi năm hoa đào So sánh hai câu thơ mở đầu bài nở /Lại thấy ông đồ già thơ với 2 câu thơ của khổ cuối để - Kết thúc Năm nay đào lại nở/ Không phát hiện nét nghệ thuật đặc sắc thấy ông đồ xưa gì? Tác dụng? -> kết cấu đầu cuối tương ứng -> thời gian luân chuyển theo chu kì bất biến đặt bên cạnh cái hữu hạn của đời người, một đi không trở lại - Tác dụng để bật ra cái bi kịch của một kiếp người 17 trong nỗi thương cảm da diết của nhà thơ. - Từ lại diễn tả vòng tuần hoàn của thời gian đồng Cách dùng từ lại trong câu thơ thời đó cũng là cái tứ “cảnh cũ người đâu” thuờng còn gợi ra điều gì? gặp trong thơ xưa đầy gợi cảm năm nay đào lại nở, tết đến, mùa xuân lại về, nhưng ông đồ già đã thành “ông đồ xưa” -> Sự ra đi không tiễn biệt của một kiếp người, một nền văn hóa. + “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây Trong sự mất mát đó tác giả thốt giờ”? lên như thế nào? Nhận xét cách - Câu hỏi tu từ Hỏi mình, hỏi người, hỏi cả thời diễn đạt? Tác giả hỏi ai? Hỏi về đại, hỏi vọng về quá khứ điều gì? - Hồn của người muôn năm cũ - Hồn của ông đồ -Hồn của lớp người đã đóng góp vào cuộc sống tinh thần của quê hương, đất nước này - Hồn của một nét đẹp văn hóa truyền thống - Câu thơ dùng chữ “hồn” – một cách nói rất Việt Nam đã chạm đến những rung cảm sâu xa nhất trong tâm linh giống nòi, nó khắc khoải mãi, da diết mãi. =>Bộc lộ bao nỗi xót xa, thương tiếc, ngậm ngùi của nhà thơ trước sự ra đi lặng lẽ của ông đồ, của các Qua đó em hiểu được tâm trạng gì bậc tiền nhân cùng với sự đổi thay giá trị của những của tác giả? nét đẹp văn hóa truyền thống. -> Nỗi buồn về thân thế đã trở thành nỗi buồn cảm hoài về thời thế. =>GV Hơn nữa, bài thơ là tiếng lòng của một trí thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ, khi Nho học đã đi đến hồi kết. Đó là nỗi cảm thương, ngậm ngùi, 18 tiếc nuối thoáng chút ân hận của lớp người đương đại khi lòng mình không dủ thương đủ quí để níu giữ những nét đẹp của văn hóa truyền thống, dẫu nhà thơ ý thức sâu sắc qui luật vận động của cuộc đời và xã hội. Bởi thế, trong nỗi niềm hoài cổ của Vũ Đình Liên còn là cái nhìn nhân hậu với quá khứ và với những gì đang trở thành quá khứ. IV. Tổng kết thuật Đánh giá chung về giá trị nghệ - Thể thơ ngũ ngôn hàm súc cô đọng thuật của bài thơ? - Giọng điệu chủ đạo của bài thơ là trầm lắng ngậm ngùi, phù hợp với việc diễn tả tâm tư, cảm xúc của nhà thơ - Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chẽ theo trình tự thời gian bằng cái nhìn hướng ngoại từ tâm thức nhà thơ; kết cấu đầu cuối tương ứng với những cảnh tượng đối lập để thể hiện đầy ám ảnh sự thất thế của ông đồ, nỗi buồn thương của tác giả. - Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rất trong sáng, bình dị nhưng tinh tế giàu sức gợi -> có sức truyền cảm lớn. 2. Nội dung Bài thơ thể hiện niềm cảm thương chân thành trước Qua đó em cảm nhận gì về nội tình cảnh đáng thương của ông đồ, trước lớp người dung gì của bài thơ? đang tàn tạ cùng với nỗi niềm hoài cổ bâng khuâng tiếc nhớ về một nét đẹp của văn hóa truyền thống nay đã mai một phôi pha, về một nền văn hóa đã từng vang bóng một thời. V. Luyện tập Cảm nhận về tấm lòng của nhà thơ Vũ Đình Liên qua bài thơ C. Củng cố, dặn dò Tìm đọc truyện ngắn “Ông đồ nho” của Thạch Lam xuất hiện cùng thời với bài thơ “Ông đồ” để thấy được sự cộng hưởng cảm xúc và từ đó hiểu hơn về nỗi lòng tâm trạng của nhà thơ Vũ Đình Liên. 19 sát a. Đề khảo sát Cảm nhận về hình ảnh ông đồ trong hai khổ thơ đầu của bài thơ “Ông đồ” b. Kết quả SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ KẾT QUẢ GIẢNG DẠY THEO ĐỊNH HƯỚNG SÁCH GIÁO VIÊN VÀ ĐỊNH HƯỚNG MỚI NĂM HỌC LỚP SĨ SỐ ĐIỂM 9-10 ĐIỂM 7-8 ĐIỂM 5 -6 ĐIỂM 20
Bài văn mẫu lớp 8Văn mẫu lớp 8 Thuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ được VnDoc sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra sắp tới đây của mình. Tài liệu bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay cho các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng xây dựng bài viết hoàn ý thuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồI/ Mở bàiGiới thiệu đôi nét về tác giả Vũ Đình Liên và bài thơ Ông đồII/ Thân bài- Nguồn gốc ra đời của bài thơ+ Vào thời kì suy tàn của văn hóa cổ xưa của người Việt+ Tác giả tiếc nuối, hoài niệm về quá khứ- Hình ảnh ông đồ qua hai thời kì+ Thời kì "đắc ý"* Tết đến, hoa đào nở, phố xá tưng bừng, người xe nườm nượp qua lại - một khung cảnh đông vui, nhộn nhịp; một bức tranh giàu màu sắc, đường nét tươi tắn, rực rỡ.* Nổi bật giữa trung tâm bức tranh ấy là hình ảnh ông đồ.* Ông đang là trung tâm chú ý, là đối tượng ngưỡng mộ, tôn vinh của mọi người “Bao nhiêu người thuê viết. Tấm tắc ngợi khen tài".=> Hình ảnh ông hòa cùng cái đông vui, náo nức của phố phường ngày giáp Tết. Ông chính là một trong những nơi gặp gỡ, hội tụ của văn hoá - tâm linh người Việt một thời.+ Hình ảnh ông đồ thời kì bị quên lãng* Cũng như bức tranh trước, ở đây, ông đồ vẫn là hình ảnh trung tâm của bức tranh* Nhưng xung quanh ông, mọi sự đã thay đổi.* Ông đồ "vẫn ngồi đấy", giữa phố xá đông đúc người qua lại nhưng lẻ loi, lạc lõng, không ai biết, "không ai hay".=> Nỗi buồn tủi thấm đẫm lên cả những vật vô tri vô giác, xót xa cho sự tàn tạ, suy sụp hoàn toàn của nền Nho học- Lời tự vấn+ Hoa đào vẫn nở, Tết vẫn đến, quy luật thiên nhiên vẫn tuần hoàn, nhưng người thì không thấy nữa "Không thấy ông đồ xưa." Tứ thơ cảnh cũ còn đó, người xưa ở đâu và hình ảnh "người muôn năm cũ" gợi lên trong lòng người đọc niềm cảm thương, tiếc nuối vô hạn.+ "Người muôn năm cũ", trước tiên là các thế hệ nhà nho và sau đó còn là "bao nhiêu người thuê viết" thời đó. Vì vậy, "hồn" ở đây vừa là hồn của các nhà nho, vừa là linh hồn của nét sinh hoạt văn hoá truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó thân thiết với đời sống của con người Việt Nam hàng trăm nghìn năm.+ Dấu chấm hỏi đặt ở cuối bài thơ như rơi vào im lặng mênh mông nhưng từ đó dội lên bao nỗi niềm. Đó là nỗi day dứt, tiếc nhớ, thương xót ngậm ngùi của tác giả và cũng là của cả một thế hệ các nhà thơ mới. Đó còn là nỗi mong ước tìm lại, gặp lại vẻ đẹp của một thời đã Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ+ Thể thơ ngũ ngôn vừa phù hợp với lối kể chuyện, vừa thích hợp để diễn tả tâm tình.+ Kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ của bài thơ đã làm nổi bật chủ đề tác phẩm quá trình tàn tạ, suy sụp của nền nho học.+ Ngôn ngữ, hình ảnh trong sáng, bình dị nhưng hàm súc, đầy ám ảnh, giàu sức Kết bài Cảm nghĩ về bài thơ ông đồThuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ mẫu 1Phong trào Thơ mới ra đời đã thu hút sự quan tâm và chú ý của nhiều thi nhân. Mỗi người đến với văn đàn đã góp một tiếng nói riêng để làm nên bức tranh thi ca đầy màu sắc cho phong trào văn học lúc bấy giờ. Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Ông là nhà thơ sinh năm 1913 và mất năm 1996, quê gốc ở Hải Dương. Dù là nhà thơ của phong trào thơ Mới, có nhiều cách tân trong sáng tác nhưng ông là nhà thơ mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Những bài thơ hiếm hoi được biết đến của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về luỹ tre xưa, về thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Ngoài sáng tác, Vũ Đình Liên còn nghiên cứu, dịch thuật và giảng dạy văn sáng tác không nhiều nhưng với bài thơ Ông đồ, tác giả đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới. Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh những năm đầu thế kỉ XX, nền Hán học và chữ nho ngày càng mất vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Chế độ khoa cử phong kiến bị bãi bố và các nhà nho, từ chỗ là nhân vật trung tâm của đời sống văn hoá dân tộc, được xã hội tôn vinh, bỗng trở nên lạc bước trong thời đại mới, bị cuộc đời bỏ quên và cuối cùng là vắng bóng. Bài thơ đã thể hiện sâu sắc niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ. Ấn tượng với bài thơ còn là những tinh tế trong việc chắt lọc, khéo léo sử dụng ngôn từ và hình ảnh của tác giả, đã góp phần gợi cảm xúc và tâm tư trong người đọc. Bài thơ là tiếng lòng của một tri thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ khi Nho học đi đến hồi kết . Đó cũng là cái nhìn nhân hậu với quá khứ và với những giá trị truyền thống của dân tộc dần bị xao lãng. Vì thế mà tiếng lòng ấy đã tìm được tiếng nói tri âm trong lòng khán giả như hai nhà nghiên cứu và phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân đã đánh giá đây là “bài thơ kiệt tác”.Thuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ mẫu 2Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều nhà văn, nhà thơ tiêu biểu. Trong đó chúng ta phải kể đến tác giả Vũ Đình Liên và bài thơ Ông đồ. Bài thơ là những hoài niệm khiến chúng ta phải suy Đình Liên 12 tháng 11 năm 1913- 18 tháng 1 năm 1996, là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Vũ Đình Liên sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tú tài năm 1932. Ông học thêm trường Luật đỗ bằng cử nhân, về sau vào làm công chức ở Nha Thương chính còn gọi là sở Đoan Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp của Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Phong cách sáng tác của thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng. Ông đã có những tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc… Bài thơ Ông đồ là một bài thơ tiêu biểu và thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Đình thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt Từ đầu thế kỉ XX, nền văn Hán học và chữ Nho ngày càng suy vì trong đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà Tây học du nhập vào Việt Nam, có lẽ vì đó mà hình ảnh những ông đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng. Vũ Đình Liên đã viết bài thơ Ông đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người xưa. Chúng ta có thể chia bài thơ thành ba phần chính để tiện tìm hiểu nội dung Phần một bao gồm hai khổ thơ đầu, đó là hình ảnh ông đồ thời Nho học còn thịnh hành, thịnh thế. Phần hai gồm hai khổ tiếp theo miêu tả hình ảnh ông đồ khi Nho học lụi tàn. Phần còn lại là tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương tác giả gửi gắm. Tác phẩm khắc họa thành công hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, đồng thời gửi gắm niềm thương cảm chân thành của nhà thơ trước một lớp người dần đi vào quá khứ, khơi gợi được niềm xúc động tư vấn của nhiều độc giả. Bài thơ được Vũ Đình Liên sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật nổi bật. Đầu tiên phải kể đến là việc bài thơ được viết theo thể thơ ngụ ngôn gồm nhiều khổ, kết cấu đối lập đầu cuối tương ứng, chặt chẽ. Ngôn từ trong sáng bình dị, truyền cảm. Với những nét đặc sắc này, bài thơ xứng đáng được nhiều người biết đến và gợi nhiều suy ngẫm trong lòng bạn năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc khiến cho bạn đọc phải suy ngẫm về những nét đẹp văn hóa của một thời đã minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ mẫu 3Vũ Đình Liên 1913 – 1996 thường được gọi là nhà thơ của "Ông đồ", một trong những bài thơ để lại nhiều âm vang nhất của phong trào Thơ Mới. Nếu phải kể tên 10 nhà thơ tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca này thì có thể chưa có tên ông. Nhưng nói đến 10 bài Thơ Mới tiêu biểu nhất thì không thể thiếu "Ông đồ".Bài thơ được đánh giá là "một bài thơ tuyệt tác" và được nhiều nhà nghiên cứu khai thác từ nhiều góc độ nhịp thơ ngũ ngôn, tính bi kịch, triết lý về thời gian, tình thương người, nỗi buồn hoài cổ, cảm hứng bi ca… Bài thơ đã được dịch sang tiếng Pháp và xung quanh nó có biết bao là đối bạn văn gọi Vũ Đình Liên là Ông đồ. Ông cũng tự nhận mình là "Ông đồ hiện đại" lettre moderne. Theo Hoài Thanh, "Ông đồ" là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng tình thương người và lòng hoài cổ và có thể nó còn là hợp lưu của nguồn cảm hứng thứ ba, đó là nghề dạy học. Vũ Đình Liên là một nhà giáo lâu năm. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn viết nhiều sách giáo khoa. Cùng với một số người bạn cũng là nhà giáo, các ông thành lập Nhóm Lê Quý Đôn viết lịch sử văn học từ những năm 60 của thế kỷ trước và dịch các tác phẩm văn học Pháp. Hơn nửa thế kỷ dạy học, năm 1990 ông được nhận danh hiệu Nhà giáo Nhân Hà Nội có ba địa chỉ gắn bó sâu sắc với Vũ Đình Liên. Đó là Chùa Bộc, ngôi nhà 156B Bà Triệu và 11 phố Hàng Bông. Có thời gian ông sống từ bi, ẩn dật trong Chùa Bộc. Và có một ngày thu vàng nắng của năm 1986, ngôi chùa tĩnh lặng bỗng xôn xao náo nhiệt vì sự đông vui ồn ã khác hẳn ngày thường, khiến những người xung quanh không khỏi tò mò, ngạc nhiên. Đó là ngày bè bạn và các học trò của nhà thơ Vũ Đình Liên tổ chức kỉ niệm 50 năm ngày ra đời bài thơ "Ông đồ" dưới mái Chùa gian sống ở đây đã khiến ông suy ngẫm rất nhiều về đạo Phật. Vốn là người hướng nội, gần gũi với thập loại chúng sinh, hồn thơ ông càng thấm đẫm tinh thần bác ái của nhà chùa. Ông viết về Phật Bà "Nghìn mắt không nhìn hết khổ đau/ Nghìn tay nâng chẳng nhẹ u sầu"; về triết lý đời sống theo cảm nhận của riêng ông Đời người là đau khổ/ tình người là xót thương. Ngôi nhà ở Bà Triệu là nơi ông sống những năm cuối đời. Trên hè phố Bà Triệu, nhiều người thường gặp ông nhẩn nha đi bộ, gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc, vầng trán mênh mông, bên hông lúc nào cũng đè nặng chiếc cặp da đen sờn cũ, đầy ắp sách vở, tư liệu, bản nháp thơ và chắc chắn trong đó không thể thiếu toàn tập thơ Baudelaire bằng tiếng Pháp và bản dịch của ông. Vũ Đình Liên rất mê Baudelaire. Ông đã dịch "Những bông hoa ác" và hàng trăm bài thơ của tác giả này. Ông say mê đến mức mọi người gọi ông là Bô Đơ… Liên. Và có nhà thơ Pháp đã gọi ông là "Baudelaire Vietnamien".Ngôi nhà 11 phố Hàng Bông thường được gọi là Gác Lưu xá, là một nơi chốn đầy ý nghĩa trong đời sống tinh thần của Vũ Đình Liên. Đây là nhà riêng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Lưu, một người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Thủ đô. Ông đã lưu giữ được nhiều tấm ảnh, bức tranh và tư liệu văn học nghệ thuật quý hiếm. Ngôi nhà này là nơi gặp gỡ và đàm đạo văn chương của ba nghệ sĩ nhà thơ Vũ Đình Liên, họa sĩ Bùi Xuân Phái và nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Do đó căn gác này còn những tên gọi khác nữa là "Lầu Tình bạn" hay "Bảo tàng Lưu – Liên – Phái". Tại đây có treo đôi câu đối Nhân loại xây Đền Văn hoá mới – Hòa bình dựng Tháp Đại đồng xưa, do Vũ Đình Liên làm và Bùi Xuân Phái viết. Tại ngôi Đền Văn hóa này, vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày giỗ của Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đình Chiểu, Hugo, Baudelaire… trầm hương trên bàn thờ lại thành kính tỏa khói nghi ngút để tưởng nhớ những bậc tài danh của đất nước và nhân thời Vũ Đình Liên là một người trọng tình bạn và luôn xót thương những người bần hàn, khổ sở. Có những ngày Tết, ông gói một đùm bánh chưng rồi ra đi không ăn Tết ở nhà. Con cháu đi tìm thì thấy ông đang ngồi ăn cùng với vài người cơ nhỡ ở sân ga. Nhắc đến Vũ Đình Liên, người ta thường nhắc đến "Ông đồ" mà ít người biết tới một chùm thơ về người đàn bà điên khá độc đáo, liên quan đến thói quen của ông. Có thể nói chùm thơ này biểu hiện tập trung phong cách thơ Vũ Đình Liên sau 1945, thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng sâu sắc thơ Baudelaire, từ nghệ thuật cấu tứ cho đến hình ảnh, ngôn từ, âm năm Bính Thìn 1977 nhà thơ lên Thái Nguyên ăn Tết với bà con, bạn bè. Khi tàu hoả đến ga Lưu Xá, cách Thái Nguyên khoảng 10 cây số, ông gặp một người đàn bà điên áo quần tả tơi, ngồi bệt dưới sàn tàu. Người điên và nhà thơ nhìn nhau xót thương, một mối tình câm lặng. Ngay đêm hôm đó ông làm bài thơ "Người đàn bà điên ga Lưu Xá" "Người đàn bà điên ga Lưu Xá/ Ngồi ngay trước mặt dưới chân tôi/ Ai vẽ được thiên tài hội họa/ Chân dung kia kinh tởm tuyệt vời/ Công chúa điên rồ và rách rưới/ Hình ảnh lạ lùng chửa có hai/ Cả tưởng tượng Đông Tây cộng lại/ Khôn dựng nên dù một phần mười/ Bao tải xơ ni lông nát vụn/ Sợi dây thừng buộc mũ rách bông/… Tôi ngồi ngắm mắt không hề mỏi/ Đống rác kia xưa đã là hoa… Ai dun dủi và ai sắp đặt/ Một nhà thơ với một người điên/ Tôi bắt gặp ba lần cặp mắt/ Nhẹ căm thù như muốn làm duyên"… Lúc này trong toa xe mọi người đã xuống hết, không còn ai nữa. Nhà thơ lấy trong túi xách ra một góc bánh chưng, một gói mứt sen nhỏ, hai tay nâng gói quà Tết trao cho người đàn bà điên "Người nhận quà đưa tay đón tay/ Chẳng rằng chẳng nói mặt như ngây/ Chia tay không một lời hò hẹn/ Hai mặt ảnh hình bốn mắt ghi/… Tôi đi tìm đến những người thân/ Bè bạn cháu con xa với gần/ Ngày Tết cổ truyền vui thiếu đủ/ Nhìn mặt người như ngắm hoa xuân/ Còn tôi biết cuộc đời đã trút/ Lên hoa kia sương tuyết nặng dày/ Đời độc ác lòng người bội bạc/ Làm hoa kia thành đống rác này/ Đời sẽ đổi lòng người sẽ đổi/ Sẽ trở về tình xót nghĩa thương/ Hãy trút hết áo quần hôi thối/ Cho thịt da lại tỏa hương thơm/ Người em Lưu Xá ở đâu đây/ Có thấy ấm lòng xuân nắng hây/ Một đóa hoa tàn nay nở lại/ Thắm hồng trong buổi mới xuân nay".Mười năm sau, 1987 cũng ở ga Lưu Xá, nhà thơ gặp lại người đàn bà đó, tuy vẫn còn hoang dại nhưng đã bớt phần rách rưới điên loạn. Dưới bóng trăng mờ, người đàn bà nắm tay nhà thơ và đưa tiễn ông đến hai ga sau. Ngay sau đó ông sáng tác bài thơ "Gặp lại người đàn bà điên" ghi lại cảm xúc của mình. Năm năm sau, 1992 người đàn bà đến tìm nhà thơ ở nhà riêng tại phố Bà Triệu. Bây giờ người điên ấy đã là một cô gái đẹp. Một mối tình huyền thoại. Và ông viết tiếp bài thơ "Người điên – Nàng tiên" "Đông Tây, Thi Họa tương phùng/ Cổ kim nghệ thuật tình thương thần kỳ…/ Thịt da trầm tỏa hương bay/ Như hồi đôi tám thơ ngây má hồng". Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhà thơ của tình thương đã nhìn thấy ở "cái xác thối tha ấy" một bông hoa tỏa hương, một mối tình xưa tinh khiết. Có lẽ đó là cảm hứng bắt nguồn từ nhiều bài thơ của Baudelaire mà ông đã dịch và ngấm vào trong máu thịt Hãy yêu họ, vì dưới những mảnh quần rách tã/ Những tấm áo mong manh vẫn là những tâm hồn". Thơ Baudelaire qua bản dịch của Vũ Đình Liên. Cũng như "Ông đồ", xung quanh bài thơ này lại có bao lời bình luận và đối thoại. Họa sĩ Bùi Xuân Phái đã minh họa người đàn bà điên trong một bức tranh kỳ dị và Trần Văn Lưu là người đã cất giữ bức tranh này."Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ". Đó là một câu hỏi đầy khắc khoải vang lên như tiếng nói từ ngàn xưa vọng về. "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay". Nhưng có một người đã "hay" và may sao người đó lại là ông – nhà thơ Vũ Đình Liên, người đã xót xa, lặng lẽ, cảm thông để viết nên bài thơ sống mãi cùng năm tháng...........................Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Thuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 8 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 8 và biết cách soạn bài lớp 8 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 8, đề thi học kì 2 lớp 8 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham bài liên quan đến tác phẩmSoạn bài lớp 8 Ông ĐồSoạn Văn 8 bài Ông đồ Vũ Đình LiênPhân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
Vũ Đình Liên 1913 - 1996 thường được gọi là nhà thơ của "Ông đồ", một trong những bài thơ để lại nhiều âm vang nhất của phong trào Thơ Mới. Nếu phải kể tên 10 nhà thơ tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca này thì có thể chưa có tên ông. Nhưng nói đến 10 bài Thơ Mới tiêu biểu nhất thì không thể thiếu "Ông đồ". Bài thơ được đánh giá là "một bài thơ tuyệt tác" và được nhiều nhà nghiên cứu khai thác từ nhiều góc độ nhịp thơ ngũ ngôn, tính bi kịch, triết lý về thời gian, tình thương người, nỗi buồn hoài cổ, cảm hứng bi ca… Bài thơ đã được dịch sang tiếng Pháp và xung quanh nó có biết bao là đối thoại. Các bạn văn gọi Vũ Đình Liên là Ông đồ. Ông cũng tự nhận mình là "Ông đồ hiện đại" lettré moderne. Theo Hoài Thanh, "Ông đồ" là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng tình thương người và lòng hoài cổ và có thể nó còn là hợp lưu của nguồn cảm hứng thứ ba, đó là nghề dạy học. Vũ Đình Liên là một nhà giáo lâu năm. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn viết nhiều sách giáo khoa. Cùng với một số người bạn cũng là nhà giáo, các ông thành lập Nhóm Lê Quý Đôn viết lịch sử văn học từ những năm 60 của thế kỷ trước và dịch các tác phẩm văn học Pháp. Hơn nửa thế kỷ dạy học, năm 1990 ông được nhận danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Ở Hà Nội có ba địa chỉ gắn bó sâu sắc với Vũ Đình Liên. Đó là Chùa Bộc, ngôi nhà 156B Bà Triệu và 11 phố Hàng Bông. Có thời gian ông sống từ bi, ẩn dật trong Chùa Bộc. Và có một ngày thu vàng nắng của năm 1986, ngôi chùa tĩnh lặng bỗng xôn xao náo nhiệt vì sự đông vui ồn ã khác hẳn ngày thường, khiến những người xung quanh không khỏi tò mò, ngạc nhiên. Đó là ngày bè bạn và các học trò của nhà thơ Vũ Đình Liên tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày ra đời bài thơ "Ông đồ" dưới mái Chùa Bộc. Thời gian sống ở đây đã khiến ông suy ngẫm rất nhiều về đạo Phật. Vốn là người hướng nội, gần gũi với thập loại chúng sinh, hồn thơ ông càng thấm đẫm tinh thần bác ái của nhà chùa. Ông viết về Phật Bà "Nghìn mắt không nhìn hết khổ đau/ Nghìn tay nâng chẳng nhẹ u sầu"; về triết lý đời sống theo cảm nhận của riêng ông Đời người là đau khổ/ tình người là xót thương. Ngôi nhà ở Bà Triệu là nơi ông sống những năm cuối đời. Trên hè phố Bà Triệu, nhiều người thường gặp ông nhẩn nha đi bộ, gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc, vầng trán mênh mông, bên hông lúc nào cũng đè nặng chiếc cặp da đen sờn cũ, đầy ắp sách vở, tư liệu, bản nháp thơ và chắc chắn trong đó không thể thiếu toàn tập thơ Baudelaire bằng tiếng Pháp và bản dịch của ông. Vũ Đình Liên rất mê Baudelaire. Ông đã dịch "Những bông hoa ác" và hàng trăm bài thơ của tác giả này. Ông say mê đến mức mọi người gọi ông là Bôđơ… Liên. Và có nhà thơ Pháp đã gọi ông là "Baudelaire Vietnamien". Ngôi nhà 11 phố Hàng Bông thường được gọi là Gác Lưu xá, là một nơi chốn đầy ý nghĩa trong đời sống tinh thần của Vũ Đình Liên. Đây là nhà riêng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Lưu, một người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Thủ đô. Ông đã lưu giữ được nhiều tấm ảnh, bức tranh và tư liệu văn học nghệ thuật quý hiếm. Ngôi nhà này là nơi gặp gỡ và đàm đạo văn chương của ba nghệ sĩ nhà thơ Vũ Đình Liên, họa sĩ Bùi Xuân Phái và nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Do đó căn gác này còn những tên gọi khác nữa là "Lầu Tình bạn" hay "Bảo tàng Lưu - Liên - Phái". Tại đây có treo đôi câu đối Nhân loại xây Đền Văn hoá mới - Hoà bình dựng Tháp Đại đồng xưa, do Vũ Đình Liên làm và Bùi Xuân Phái viết. Tại ngôi Đền Văn hoá này, vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày giỗ của Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đình Chiểu, Hugo, Baudlaire… trầm hương trên bàn thờ lại thành kính toả khói nghi ngút để tưởng nhớ những bậc tài danh của đất nước và nhân loại. Sinh thời Vũ Đình Liên là một người trọng tình bạn và luôn xót thương những người bần hàn, khổ sở. Có những ngày Tết, ông gói một đùm bánh chưng rồi ra đi không ăn Tết ở nhà. Con cháu đi tìm thì thấy ông đang ngồi ăn cùng với vài người cơ nhỡ ở sân ga. Nhắc đến Vũ Đình Liên, người ta thường nhắc đến "Ông đồ" mà ít người biết tới một chùm thơ về người đàn bà điên khá độc đáo, liên quan đến thói quen của ông. Có thể nói chùm thơ này biểu hiện tập trung phong cách thơ Vũ Đình Liên sau 1945, thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng sâu sắc thơ Baudelaire, từ nghệ thuật cấu tứ cho đến hình ảnh, ngôn từ, âm điệu. Tết năm Bính Thìn 1977 nhà thơ lên Thái Nguyên ăn Tết với bà con, bạn bè. Khi tàu hoả đến ga Lưu Xá, cách Thái Nguyên khoảng 10 cây số, ông gặp một người đàn bà điên áo quần tả tơi, ngồi bệt dưới sàn tàu. Người điên và nhà thơ nhìn nhau xót thương, một mối tình câm lặng. Ngay đêm hôm đó ông làm bài thơ "Người đàn bà điên ga Lưu Xá" "Người đàn bà điên ga Lưu Xá/ Ngồi ngay trước mặt dưới chân tôi/ Ai vẽ được thiên tài hội họa/ Chân dung kia kinh tởm tuyệt vời/ Công chúa điên rồ và rách rưới/ Hình ảnh lạ lùng chửa có hai/ Cả tưởng tượng Đông Tây cộng lại/ Khôn dựng nên dù một phần mười/ Bao tải xơ ni lông nát vụn/ Sợi dây thừng buộc mũ rách bông/… Tôi ngồi ngắm mắt không hề mỏi/ Đống rác kia xưa đã là hoa… Ai dun dủi và ai sắp đặt/ Một nhà thơ với một người điên/ Tôi bắt gặp ba lần cặp mắt/ Nhẹ căm thù như muốn làm duyên"… Lúc này trong toa xe mọi người đã xuống hết, không còn ai nữa. Nhà thơ lấy trong túi xách ra một góc bánh chưng, một gói mứt sen nhỏ, hai tay nâng gói quà Tết trao cho người đàn bà điên "Người nhận quà đưa tay đón tay/ Chẳng rằng chẳng nói mặt như ngây/ Chia tay không một lời hò hẹn/ Hai mặt ảnh hình bốn mắt ghi/… Tôi đi tìm đến những người thân/ Bè bạn cháu con xa với gần/ Ngày Tết cổ truyền vui thiếu đủ/ Nhìn mặt người như ngắm hoa xuân/ Còn tôi biết cuộc đời đã trút/ Lên hoa kia sương tuyết nặng dày/ Đời độc ác lòng người bội bạc/ Làm hoa kia thành đống rác này/ Đời sẽ đổi lòng người sẽ đổi/ Sẽ trở về tình xót nghĩa thương/ Hãy trút hết áo quần hôi thối/ Cho thịt da lại toả hương thơm/ Người em Lưu Xá ở đâu đây/ Có thấy ấm lòng xuân nắng hây/ Một đóa hoa tàn nay nở lại/ Thắm hồng trong buổi mới xuân nay". Mười năm sau, 1987 cũng ở ga Lưu Xá, nhà thơ gặp lại người đàn bà đó, tuy vẫn còn hoang dại nhưng đã bớt phần rách rưới điên loạn. Dưới bóng trăng mờ, người đàn bà nắm tay nhà thơ và đưa tiễn ông đến hai ga sau. Ngay sau đó ông sáng tác bài thơ "Gặp lại người đàn bà điên" ghi lại cảm xúc của mình. Năm năm sau, 1992 người đàn bà đến tìm nhà thơ ở nhà riêng tại phố Bà Triệu. Bây giờ người điên ấy đã là một cô gái đẹp. Một mối tình huyền thoại. Và ông viết tiếp bài thơ "Người điên - Nàng tiên" "Đông Tây, Thi Họa tương phùng/ Cổ kim nghệ thuật tình thương thần kỳ…/ Thịt da trầm tỏa hương bay/ Như hồi đôi tám thơ ngây má hồng". Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhà thơ của tình thương đã nhìn thấy ở "cái xác thối tha ấy" một bông hoa toả hương, một mối tình xưa tinh khiết. Có lẽ đó là cảm hứng bắt nguồn từ nhiều bài thơ của Baudelaire mà ông đã dịch và ngấm vào trong máu thịt Hãy yêu họ, vì dưới những manh quần rách tã/ Những tấm áo mong manh vẫn là những tâm hồn". Thơ Baudelaire qua bản dịch của Vũ Đình Liên. Cũng như "Ông đồ", xung quanh bài thơ này lại có bao lời bình luận và đối thoại. Họa sĩ Bùi Xuân Phái đã minh họa người đàn bà điên trong một bức tranh kỳ dị và Trần Văn Lưu là người đã cất giữ bức tranh này. "Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ". Đó là một câu hỏi đầy khắc khoải vang lên như tiếng nói từ nghìn xưa vọng về. "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay". Nhưng có một người đã "hay" và may sao người đó lại là ông - nhà thơ Vũ Đình Liên, người đã xót xa, lặng lẽ, cảm thông để viết nên bài thơ sống mãi cùng năm tháng
tác giả vũ đình liên và bài thơ ông đồ